NÓI VỀ NHỮNG “ÁC MỘNG”

            CỦA HOÀNG HƯNG

 

 

 

 

 

 

...Có một thời, không biết Hưng ở cõi nào về với gia đình, mà đến nỗi...Vợ khóc một đêm, con lạ một ngày, đến nỗi...bước vào cửa người quen tái mặt thậm chí giật mình... một cái vỗ vai.

Anh đã sống một thời gì mà:

                      ...gần đất xa trời

                      Ngủ là xum họp với người cõi âm

                      Tỉnh ra là chết âm thầm

Cái kiếp hoàn toàn bất hạnh. Chả biết từ đâu, bất hạnh cứ dội xuống như mưa đá. Nhưng, tôi biết nếu không có phương tiện nói ra – nói ra được là nguôi được – thì sao đây ? Điên ư ? Hay phá phách đời mình ư ? May cho Hưng là còn có Thơ để giãi oan khiên u uất của mình lên trang giấy ấm áp tình Người. Người viết hoa, mà anh tin và gửi gắm nhiều hi vọng.

 

Tôi đã ứa nước mắt, do một câu thơ Hoàng Hưng hay đến sững sờ, đến ngơ ngác:

                      Anh đánh mất mùi anh trên những sàn đá lạ

                     Chỉ còn mưa mùi nước mắt đêm

Chẳng biết cái gì đã thúc đẩy anh vào một cái rãnh chật, cạn nước chỉ còn bùn. Anh quẫy cựa. Anh sã cánh, tơi tả hết lông cánh như bị nhốt trong cái lồng bê tông vài mét khối. Anh thấm thía nông nỗi ấy đến

                     Ba năm còn nhớ một con thạch thùng

                     Mười năm còn quen ngồi một mình trong tối

 

Một tập thơ căng mọng sự thật. Mỗi chữ  mỗi dòng đều từ  sự thật mà ứa ra, bật ra,bung ra. Những con chữ vỡ, nổ. Hoàng Hưng là thi sĩ tìm nỗi Đau, ta viết tắt là Đ; anh chỉ tìm thấy Đ và anh lại luẩn quẩn phát hiện ra nỗi đau tiền kiếp. Như Đ, Đ' rồi lại đến Đ''.

Đó là nỗi trằn trọc, băn khoăn, day dứt vào nửa cuối thế kỷ XX mà sau hai cuộc tổng chiến khủng khiếp, tưởng là sau những Potsdam, những Nuremberg, Paris, những Genève...sẽ yên ổn cả hoá ra... Chao ôi !

 

Hoàng Hưng đã đi tới một tính cách rõ rệt trong thơ. Nỗi quằn quại của đời anh, ngòi bút anh đang nói với chúng ta đôi điều mới lạ về số phận con người. Anh còn phải tiếp tục đi nữa, hoàn chỉnh nhân cách thi sĩ, nhìn thẳng vào số phận nghiệt ngã của mình và có thể của nhiều người khác nữa.

Hoàng Cầm (Nhà thơ, Đồng Sáng lập viên các báo và tạp chí

Nhân Văn, Giai Phẩm)

Văn xuôi Hoàng Cầm

 NX B  Văn  Học, 1999

 

 

...Hình như, giữa cái sướng và cái sợ có mối liên hệ bí mật nào đó, nó cứ dắt díu nhau. Vì thế, tự sâu thẳm, thơ là nguy hiểm. Hoàng Hưng đã từng cắn răng chịu đựng sự nguy hiểm của thơ, sự nguy hiểm còn hiện thật hơn cả chủ nghĩa hiện thật nữa:

"Người về từ cõi ấy

Giữa phố đông nhồn nhột sau gáy"

Và:

"Một hôm có kẻ nhìn trân trối

Một đêm có tiếng bâng quơ hỏi"

Lại nữa:

"Giật mình

                một cái vỗ vai"

                                               (Người về)

Hãi quá! Tôi cầu mong cho mình đừng bao giờ phải trải qua sự "thể nghiệm" này, dù chỉ để làm thơ cho hay.

"Ba năm còn nhớ một con thạch thùng

Mười năm còn quen ngồi một mình trong tối"

                                               (Người về)

 

Thì ra, thơ Hoàng Hưng cũng "hiện thật" quá đi chứ, vậy mà nhiều nhà phê bình còn chưa chịu!

 

Cao Bá Quát, trong bài thơ hình như là bài "Trường giang thiên" đã mơ ước biến cái gông dài đang chịt cổ mình thành chiếc thang mây để mình cưỡi nó như cưỡi rồng(con rồng Châu Á) bay vút lên. Cao Bá Quát liều thật! Mà dường như phải hơi liều một chút, thì mới có thơ hay. Thơ đúng là một trò chơi khá nguy hiểm, mà chẳng có công ty Bảo hiểm nào chịu bảo hiểm cho thơ (công ty Bảo Việt chăng? Một gợi ý).

"Đêm em về trắng toát thời thơ ấu

Đêm mẹ về chẳng nói lại đi"

                                               (Mộng)

Bảo Ninh thấy sau chiến tranh còn lại một nỗi buồn. Hoàng Hưng lại thấy nỗi buồn chính là một cuộc chiến tranh dai dẳng khốc liệt từ tiền kiếp, nó vây bủa người làm thơ, không cách gì thoát ra được. Và khi đã rơi vào cuộc - chiến - tranh - buồn đó rồi, thì dẫu "mua vui cũng được một vài trống canh" như Nguyễn Du, cũng chỉ là vui gượng. Trong một đêm mưa Hoàng Hưng thấy "tất cả nước mắt loài người bao vây căn nhà ta", với người vợ khổ khi chồng lâm vào nghịch cảnh:

"Nhớ điên cuồng mùi anh như con bò cái nhớ mùi phân rác"

                                               (Mùi mưa hay bài thơ của M.)

 

Người chỉ đếm đến một, người luôn ở vạch xuất phát, người dám quên ngay từng bước vừa đi,  người khao khát những nẻo đường  mới, những bụi gai mới, những cạm bẫy mới, người tự nguyện chìm vào cuộc – chiến – tranh buồn dai dẳng,  người  chấp nhận những rủi ro thua  thiệt, vì cái gì, nếu không phải là vì Thơ. Vì Thơ, tức cũng không vì một cái  gì cả. Và không có con đường  nào dễ dàng, rộng mở dành cho anh đâu. Số phận một nhà thơ cách tân là luôn phải ở  vạch xuất  phát. Và luôn phải biết quên.

  Thanh Thảo (Nhà thơ)

Ngón thứ sáu của bàn tay

 NXB Đà Nẵng 1999

 

 

 

 

...Những bài Người về, Mộng, Đêm vượt đèo trong tập Người đi tìm mặt là những bài thơ hay, không chỉ vì sự dễ hiểu. Bài thơ như sự chưng cất toàn bộ kinh nghiệm, ấn tượng, cảm xúc của cả một phần đời trong thời gian và không gian của chính tác giả, và hẳn không chỉ riêng tác giả. Cuộc đời dẫu bất cứ lúc nào, quả chẳng bao giờ hết được những chuyện bất an, và bất an đâu phải chỉ là ngã cầu thang, đâm xe máy, đấm đò, bị xin đểu, hoặc trấn lột... mà còn biết bao ám ảnh khác trong đời sống tinh thần. Tôi hiểu vì sao Chủ nghĩa Hiện Đại, cái "modernisme" mà ta kinh sợ và phê phán gay gắt non nửa thế kỷ, vẫn cứ là một hiện tượng thế giới; và những người không tên trong Mê cung của Alain Robbe Grillet, Người xa lạ của Albert Camus, hoặc nhân vật chỉ có tên K. trong Vụ án của Franz Kafka sống trong những âu lo, thảng thốt, không biết thân phận của mình sẽ ra sao trong bao hiểm hoạ vô hình, lại nói được bao vấn đề lớn lao và nghiêm chỉnh của thế kỷ.

Phong Lê (Nhà nghiên cứu văn học, Viện trưởng Viện Văn học)

Văn học trong hành trình tinh thần của con người

NXB Lao Động, 1994

 

 

 

...Được đọc những bài thơ trong tù của Hoàng Hưng, tôi mới hiểu Hưng hơn, và mới thấy sức chịu đựng, sự gắng vượt của một con người thơ, một trí thức...

 

Chắc thời gian ấy, Hoàng Hưng nhiều tâm trạng lắm. Cái uất ức nén lại, đau xót nén lại, những sinh hoạt trong tù chiếm lĩnh hầu hết ngày tháng... Những phút người tù có được cho mình, cũng là một thứ vụng lén. Cái đồng cảm của đôi tù nam, nữ cũng vừa tinh tế và tội nghiệp:

 

Sau tiếng nước rửa bát phút im lặng thiêng liêng trước giờ em tắm

Rồi róc rách dè dặt em kỳ cọ nhẹ nhàng như xấu hổ anh hết nóng bừng lại lạnh toát trong ngừng thở

Em phơi áo vù con chim bay lên.

Rồi mở cửa

Tự khai

Sa mạc giấy

Lạc đà chữ

Chỉ vẩn vơ một bóng dáng vô hình

Rồi về phòng

Mở cửa

Đóng cửa

Rồi mở cửa

Cơm

Đóng cửa

Mời nhau bằng lanh canh bát đũa

Ta lại cùng ăn qua vách bữa cơm tù

                                                                  (Một ngày)

 

Chỉ trong tù mới biết đến tình yêu của người vợ chí cốt của mình:

 

Ngày ấy mắt em xanh

Yêu anh mắt em bạc vì nước mắt.

 

mà cái ngày ra tù cũng thật như một cõi nào trở lại:

 

Người về từ cõi ấy

Vợ khóc một đêm con lạ một ngày

   

     Người về từ cõi ấy

Bước vào cửa người quen tái mặt

 

Người về từ cõi ấy

Giữa phố đông nhồn nhột sau gáy

 

Một năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui

Hai năm còn mộng toát mồ hôi

Ba năm còn nhớ  một con thạch thùng

Mười năm còn quen ngồi một mình trong tối...

                                                     (Người về)

 

Tôi đọc thơ tù của Hoàng Hưng không nhiều. Bởi tôi và Hoàng Hưng biết nhau, quý nhau, nhưng ít cởi mở, lúc nào giữa tôi và Hoàng Hưng cũng có một khoảng cách. Có lẽ đó cũng là một cái tật của dân Bắc Hà... Nhưng thú thật, đọc thơ tù của Hưng, tôi ngồi lặng đi, thương bạn, xót bạn. Đời người có những bước thẳng, bước vấp. Phải ngồi tù, nhưng có được những bài thơ tù hay, đâu có dễ gì!                            

 Ngô Văn Phú (Nhà thơ, Giám đốc NXB Hội NhàVăn)

                        Duyên nợ văn chương

 NXB Hội Nhà Văn, 2002

 

 

 

… Tất cả các bài thơ (của ông) đều rất có cá tính.

 Allen Ginsberg (Nhà thơ Mỹ 1926-1997, Thủ lĩnh phong trào Beat, Viện sĩ Viện Hàn lâm Văn học Nghệ thuật Hoa kỳ)

Thư viết tay gửi HH

18/2/1997

 

 

Đọc bản dịch các bài thơ của ông, tôi rất xúc động vì những xúc cảm về sự lạc lõng và mất mát trong đó. Chắc là cả thế giới chúng ta đã đi đến cùng một chỗ đắng cay như thế.

Robert Creeley (Nhà thơ Mỹ, 1926-2005, Đồng Chủ tịch Viện Hàn lâm Thơ Hoa Kỳ 1999)

                                                      Thư email gửi Hoàng Hưng

                                                                                          12/7/2001

 

 

 

 

 

Điều mà tôi yêu trong các bài thơ của Hoàng Hưng, đó là ông đã phục dựng cái thực tại khách quan, bên ngoài thông qua lăng kính của tinh thần, của cái thực tại chủ quan, mộng mị và nhạy cảm. Cho nên trong thơ ông có những ghi nhận chính xác về các sự vật, nơi chốn hay biến cố, nhưng những cái đó truyền đạt tới chúng ta đã được  phóng đại, biến dạng, sửa đổi bởi những gì mà tác giả nhìn thấy và bởi những gì rung lên trong ông.

 Marie Etienne (Nhà thơ Pháp)

                                                     Thư email gửi Hoàng Hưng

                                                                  15/6/2002

 

 

 

 

Hai bài thơ của Hưng thể hiện một phong cách và đề tài nhất quán của một con người ở đầu chót của sợi thừng hay ở tột đỉnh của một kinh nghiệm đau khổ hay giải thoát khỏi đau khổ. Cả hai bài thơ  đều liên quan đến việc sử dụng thời gian như một phần của tấn kịch ấy. Trong bài “Mùi mưa hay bài thơ của M.” hai người yêu đã chia lìa trong 15 năm rồi gặp lại nhau. Tình yêu của họ bền bỉ như mưa đang rơi, nhưng xa cách một nghìn đêm đã là nỗi đau khổ cực độ, và bây giờ họ ước mong được chết cùng nhau dưới mái nhà  mưa rơi (để mà giữ cho tình yêu của họ được vĩnh cửu). Trong bài “Người về”, một người trở về sau một thời gian vắng mặt không rõ lý do từ một “cõi ấy”, để khám phá ra rằng vợ, con, và bạn bè không còn biết, không còn hiểu được mình nữa. Người ấy đã là một hồn ma đối với họ. Và sự vắng mặt đối với ông đã là một vết thương nặng nề đến mức ông nghẹn giữa bữa tiệc vui, tới hai năm sau ông còn sực tỉnh vì cơn ác mộng và tới tận mười năm sau khi trở vể, ông còn ngồi một mình trong bóng tối. Ông là một người xa lạ trong cuộc sống của chính mình. Nhưng rồi ông cũng có sự giải thoát khỏi đau khổ. Có một ngày ông mệt mỏi chán chường vì ánh mắt nhìn chằm chằm, và có một đêm một tiếng nói, có thể là của một nguời đàn bà, cất lên hỏi ông. Cái vỗ vai làm ông giật mình dường như đưa ông trở lại thế giới. Ông sực tỉnh lại, hoặc là trở về cuộc sống đã từng tiện nghi với ông, hoặc là trở về sự hiện diện mới được chào đón trong lòng cái thế giới cũ kia. Tính cách bị che mờ của câu chuyện (ai vỗ vai? ai là người bây giờ đánh thức ông?) là phần có chủ đích của câu chuyện. Thơ của Hung làm tôi nhớ đến những tiểu thuyết hư cấu mang tính hiện sinh. Chúng xảy ra trong một  thời gian rất rõ nhưng cũng có một tính cách phi thời gian. Nhiều năm tháng được nén lại trong một bài thơ  trữ tình ngắn nói về mất mát và đau khổ. Con người đau khổ có thân xác và kinh nghiệm cụ thể, nhưng theo một nghĩa khác, cũng là một gương mặt tiêu biểu. Tôi nghĩ đến cuốn tiểu thuyết “Người đàn bà trong cồn cát” của tác giả Nhật Bản Kobo Abe. Một ngày nọ có một người đàn ông trượt chân thụt xuống một vực cát  trong khi đang bước đi giữa sương mù ở một nơi xa xôi. Thế rồi ông ta trở thành chồng của một trong số nhiều người đàn bà của cồn cát mà nghề nghiệp là xúc cát  suốt đời. Thực vậy, ông ta đã tìm ra số phận của chính mình, không lay chuyển được, không thể nào thoát khỏi (và cuối cùng thì có lẽ ông không muốn thoát khỏi). Chúng ta được ban cho phải sống trong những thế giới đầy đau khổ. Nhưng con tim vẫn có khả năng trỗi dậy, mặc dù đã bị chôn vùi nhiều năm tháng (“Mùi mưa”); một cái vỗ vai có thể thình lình thức tỉnh ta trở về với đời sống từng đã nhìn lướt qua mặt ta.

 

Tôi không biết có bài thơ  nào khác để so sánh với  thơ Hưng. Bên dưới cái bề mặt bình thản, kể chuyện, thơ (Hưng) rất phức tạp và xúc động. Có lẽ trong đời thực, Hưng đã cảm thấy bị lưu đày giữa ngay  xứ sở của mình và bị dời khỏi những hoàn cảnh sống và làm việc của chính mình.

 

Paul Hoover (Nhà thơ Mỹ, Chủ biên Tạp chí New American Writing)

                              Thư gửi Tom Nawrocki, GS Khoa Ngữ Văn

                                                         trường Columbia College Chicago

                                                                       tháng  1/2003